PHẠM TÂY SƠN (Phạm đình Tuấn)

TỔ QUỐC VIỆT NAM – DANH DỰ – ĐỒNG BÀO TRÊN HẾT Thông tin để khai trí và phát triển.

-Chiến lược bủa vây, ‘khống chế thông tin’ của Trung cộng.

Posted by phamtayson trên 06/08/2015


Việt Nam phải đưa sự thật ra thế giới – Bài 2 Ở dưới

PLTP

“MA TRẬN THÔNG TIN” CỦA TRUNG QUỐC Ở BIỂN ĐÔNG – BÀI 1

Chiến lược bủa vây, ‘khống chế thông tin’

ThS LỤC MINH TUẤN (*)Thứ Tư, ngày 5/8/2015

(PL)- “Dùng thông tin khống chế thông tin” – một chiến lược hết sức lợi hại trong học thuyết “tam chủng chiến pháp” của Bắc Kinh.

LTS: Cùng với cuộc đấu tranh chính trị-ngoại giao, pháp lý, cuộc đấu tranh thông tin là một “chiến trường” mà hiện nay Trung Quốc (TQ) đang ra sức, bóp méo sự thật hòng định hướng dư luận theo hướng có lợi cho Bắc Kinh… Pháp Luật TP.HCM xin khởi đăng loạt bài về “Ma trận thông tin” của TQ ở biển Đông để giúp bạn đọc hình dung một cách rõ nét hơn về “cuộc chiến” không tiếng súng nhưng rất khốc liệt này.

Ngay từ năm 2003, TQ đã xác định thông tin là một mặt trận quan trọng có thể tác động làm thay đổi nhận thức chung của dư luận xung quanh nhiều điểm nóng tranh chấp liên quan đến TQ. Do đó, chiến lược “dùng thông tin để khống chế thông tin” được Trung ương Đảng Cộng sản TQ và Ủy ban Quân sự Trung ương cụ thể hóa thành học thuyết “tam chủng chiến pháp” và lần lượt ứng dụng vào vấn đề Điếu Ngư/Senkaku và nay là những tranh chấp trên biển Đông.

Ba mũi tên trí mạng

Hiện nay có thể hình dung cấu trúc cơ bản của “tam chủng chiến pháp” bao gồm ba mặt trận vòng ngoài là: Mặt trận tâm lý, mặt trận truyền thông và mặt trận pháp lý. Có thể hiểu đơn giản đây là sự phối hợp giữa các công cụ chính trị – kinh tế – quân sự với các công cụ về pháp lý làm nền tảng và cuối cùng được khuếch trương tối đa bởi bộ máy truyền thông. Mục tiêu của cả ba mặt trận này có nhiều cấp độ, từ gây nhiễu dư luận tiến đến khống chế và kiểm soát thông tin, từ đó tác động đến tâm lý của các nước liên quan theo chiều hướng TQ mong muốn.

Điểm mấu chốt trong chiến lược này là các bước triển khai nhất quán và sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa các bộ, ngành liên quan nhằm hậu thuẫn cho các hành động của TQ trên thực địa. Ví dụ như khi TQ tiến hành xây dựng các bãi đá và bị phản đối, lập tức các cơ quan phát ngôn sẽ lên tiếng chính thức, các cơ quan nghiên cứu luật sẽ đưa ra những trích dẫn từ luật quốc gia, luật quốc tế để bảo vệ và các bộ máy truyền thông của TQ sẽ liên tục tuyên truyền những thông tin này ra bên ngoài. Đó là giai đoạn “phòng vệ” thường thấy mà hầu hết quốc gia đều phải thực hiện.

Ngay sau đó, đồng loạt các cơ quan trên sẽ chuyển ngay sang giai đoạn “tấn công”. Giai đoạn này mới là phần then chốt trong “tam chủng chiến pháp”. Trong đó trên mặt trận tâm lý, TQ sẽ lên án ngược lại các bên liên quan, thậm chí đưa ra những biện pháp đáp trả về quan hệ chính trị, trừng phạt kinh tế hoặc đe dọa vũ lực. Trên mặt trận pháp lý, TQ sẽ áp đặt luật quốc gia hoặc luật quốc tế dẫn những điều có lợi cho TQ một cách hệ thống, bác bỏ các trích dẫn luật của đối phương. Và trên mặt trận truyền thông, đồng loạt các bộ máy truyền thông đại chúng TQ sẽ đăng lại quan điểm chính thức của nhà nước cũng như của giới học thuật TQ dưới nhiều cấp độ khác nhau (từ khách quan, chủ quan đến cả các quan điểm hiếu chiến) với mật độ dày đặc, độ khuếch đại và công kích đối phương lớn hơn hẳn. Chiến lược phối hợp như vậy đã được áp dụng tại nhiều điểm nóng và trên thực tế đã đem lại cho TQ không ít thắng lợi trên thực địa.

TQ đang “dàn trận” về thông tin để hỗ trợ chiến lược xây đảo nhân tạo trên thực địa. Ảnh: CSIS

Nhìn lại vụ tấn công chớp nhoáng Scarborough

Trường hợp TQ chiếm hữu thực tế bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham năm 2012 là một minh chứng tiêu biểu. Đây là một bãi cạn nằm trong tuyên bố chủ quyền của nhiều bên trên biển Đông (có cả TQ và Philippines) và đang do Philippines chiếm đóng trên thực địa. Bãi cạn này nằm cách căn cứ hải quân chiến lược Subic của Philippines 120 dặm nên có vị trí chiến lược quan trọng.

Vào đầu tháng 4-2012, lực lượng hải quân Philippines phát hiện và bắt giữ các tàu cá đánh bắt các loại hải sản trái phép (theo luật của Philippines) ở vùng biển quanh bãi cạn Scarborough. Ngay lập tức, TQ điều động các tàu hải giám đến ngăn cản hoạt động chấp pháp của phía Philippines và cả hai bên kình nhau suốt 10 tuần sau đó. Đến 15-6-2012, Philippines quyết định rút các tàu của mình khỏi khu vực và các tàu hải giám, đánh cá của TQ chỉ còn việc bao bọc lại và chiếm hữu bãi cạn này.

Trên mặt trận truyền thông, hòa theo phát ngôn chủ đạo của Đới Bỉnh Quốc (Ủy viên Quốc vụ viện TQ đặc trách các vấn đề biển Đông) rằng “Philippines ăn hiếp TQ”, hàng loạt bộ máy truyền thông TQ đã thực hiện các bài báo, bài bình luận nhằm phê phán, lên án, thậm chí còn liên tục đe dọa tấn công Philippines. Trên thực địa, số lượng tàu hải giám và tàu đánh cá của TQ cũng được điều động đến đông hơn hẳn lực lượng của Philippines. Những điều này đã tác động lớn đến lập trường giữ Scarborough của chính phủ Philippines.

Không chỉ vậy, TQ còn tận dụng các kênh ngoại giao nước lớn để gây áp lực lên Mỹ, vốn vẫn được xem như phương thức phòng vệ mạnh nhất về phía Philippines, lúc này trở thành đối tác trung gian hòa giải của cả hai bên. Và sự trung gian của Mỹ với chủ trương kiềm chế đã thuyết phục được Philippines rút tàu ra khỏi bãi cạn Scarborough. Có thể nói “tam chủng chiến pháp” đã làm kiệt sức chính phủ Philippines. Hiện nay, TQ vẫn đang nắm quyền chiếm hữu thực tế trên bãi cạn Scarborough.


Mỹ ráo riết thực hiện các chuyến bay giám sát để bày tỏ thái độ và chia sẻ thông tin thực địa. Ảnh: CNN

Triết lý đối phó TQ

Tuy nhiên, nên nhớ rằng đã là một chiến lược, chắc chắn sẽ có ưu và nhược điểm. Thường thì nếu ưu điểm càng lớn, nhược điểm sẽ càng nặng nề. Có thể thấy ở đây, TQ tiến hành chiến lược “dùng thông tin khống chế thông tin” với cách triển khai theo học thuyết “tam chủng chiến pháp”. Ba mặt trận này như thế chân vạc, mỗi mặt trận là một trụ cột trong mặt trận thông tin nói chung. Điều này đồng nghĩa với thực tế: Chỉ cần một cột trụ bị gãy thì cả mặt trận lớn sẽ không đạt được mục tiêu như kỳ vọng.

Để khắc phục nhược điểm này, TQ đã xây dựng thêm một mặt trận không công bố nhằm kết nối độ bền vững của cả ba mặt trận trên. Đó là mặt trận học thuật, mà lực lượng chủ đạo chính là cộng đồng học giả của TQ. Vai trò của mặt trận này rất quan trọng, đặc biệt trong trường hợp ứng dụng vào các điểm nóng ở biển Đông, khi các cơ sở pháp lý của TQ là rất yếu. Vai trò của các học giả TQ là tác nhân góp phần củng cố, bồi đắp, thậm chí ngụy tạo những cơ sở pháp lý mơ hồ của nước này nhằm tôn tạo sự hợp lý tối thiểu trong lập trường của chính phủ TQ.

Tuy nhiên, các lập luận như vậy sẽ bị cộng đồng học giả của các nước khác phát hiện, phản biện và công bố. Do đó, “khắc tinh” của “tam chủng chiến pháp” trên biển Đông chính là sự đồng thuận về quan điểm của cộng đồng học giả khu vực và quốc tế. Trong đó, điểm cốt lõi vẫn là cộng đồng học giả của các quốc gia có liên quan trực tiếp đến những điểm nóng mà TQ nhận là “có tranh chấp” trên biển Đông. Nếu cộng đồng học giả của các quốc gia có lợi ích chính đáng về luật pháp quốc tế chia sẻ được quan điểm, kết nối thành công và được sự ủng hộ của cộng đồng học giả quốc tế, các quốc gia đó sẽ chế ngự và chiến thắng “tam chủng chiến pháp” của TQ trên mặt trận thông tin.

Chỉ sau 10 tuần đụng độ trên Scarborough, TQ đã chiếm hữu thực tế bãi cạn này từ Philippines mà không mất một viên đạn. Đây chính là một thắng lợi lớn của “tam chủng chiến pháp”. Trong 10 tuần đó, TQ đã liên tục chuyển tải những thông điệp ngoại giao lên án quá trình “quân sự hóa tranh chấp” của Philippines tại bãi cạn Hoàng Nham (do Philippines sử dụng tàu hải quân ngay từ đầu), từ đó lên án Philippines vi phạm DOC và hàng loạt các quy tắc hòa bình trong luật quốc tế cũng như thái độ bất hợp tác trong đàm phán của Philippines. Đồng thời, TQ còn tiến hành lệnh cấm nhập khẩu chuối từ Philippines (sau này được gọi là “cuộc chiến tranh chuối”) gây ảnh hưởng nặng nề lên mặt hàng xuất khẩu then chốt của Philippines mà 10 năm nay vẫn đều đặn gia tăng sản lượng xuất khẩu qua TQ.

(*) ThS Lục Minh Tuấn là Nghiên cứu viên Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế (SCIS) – Giảng viên khoa Quan hệ Quốc tế, trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh.

ThS LỤC MINH TUẤN (*)

**********************************************

“MA TRẬN THÔNG TIN” CỦA TRUNG QUỐC Ở BIỂN ĐÔNG – BÀI 2

Việt Nam phải đưa sự thật ra thế giới

ĐỖ THIỆN thực hiện – Thứ Năm, ngày 6/8/2015

(PL)- Việt Nam không thể đối chọi về số lượng ấn phẩm nhưng có thể hóa giải bằng cách đưa sự thật về biển Đông đến thế giới.

Trả lời Pháp Luật TP.HCM, bà Phạm Thanh Vân, thành viên sáng lập Dự án Đại sự ký biển Đông nhận định mặt trận thông tin của Trung Quốc (TQ) được tiến hành với sự phối hợp đồng bộ của nhiều lĩnh vực khác nhau. Đó là mặt trận tâm lý, truyền thông, pháp lý, có sự gắn kết giữa truyền thông và giới học giả, theo hai hướng chính là quảng bá cho lập trường, quan điểm sai trái của TQ và gây nhiễu các quan điểm đối lập.

Thế giới đang thiếu nhiều sự thật

. Phóng viên: Tại sao phải nhấn mạnh vai trò mặt trận thông tin trên mặt trận đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam (VN)?

+ Phạm Thanh Vân: Nguồn thông tin được coi là cơ sở tạo ra những phân tích, bình luận có thể gây ảnh hưởng tới nhận thức chung của dư luận quốc tế cũng như ảnh hưởng tới việc quyết định chính sách đối ngoại của các quốc gia. Quan điểm chính thức của VN là giải quyết tranh chấp bằng các phương thức hòa bình. Mặt trận thông tin bởi vậy là một trong những nhân tố đóng vai trò quyết định để giành phần thắng khi đi theo con đường hòa bình.

. Bà có nhận xét gì về mặt trận thông tin VN hiện nay về vấn đề biển Đông?

+ Mặt trận thông tin của VN hiện giờ đã tốt hơn nhiều so với mấy năm về trước. Thông tin tiếng Anh trên báo chí đã nhiều hơn, phong phú hơn. Bên cạnh những cây bút kỳ cựu và hoạt động của các nhà ngoại giao, trên diễn đàn quốc tế đã xuất hiện nhiều cây bút mới như Lê Hồng Hiệp, Trương Minh Huy Vũ, Vũ Hải Đăng, Nguyễn Ngọc Lan, Đỗ Thanh Hải, Phạm Ngọc Minh Trang, Nguyễn Bảo Châu… Người Việt cũng có những nghiên cứu thuộc lĩnh vực mà hầu như chưa xuất hiện trên diễn đàn công chúng, ví dụ như những nghiên cứu của các nhà nghiên cứu độc lập Phạm Hoàng Quân và Hồ Bạch Thảo trong lĩnh vực cổ sử. Đây là một vốn tri thức mới mà người Việt có thể đóng góp cho thế giới, qua đó cũng để thế giới biết sự thật về Hoàng Sa và Trường Sa trong cổ sử của chính TQ.

. Theo bà, mặt trận thông tin của VN còn những hạn chế gì?

+ So với TQ thì lượng bài viết/nghiên cứu của VN viết cho các độc giả nói tiếng Anh còn hạn chế. Hãy thử vào các trang công cụ tìm kiếm của giới khoa học như Science Direct, Google Scholar hay vào thư viện trực tuyến của Quốc hội Hoa Kỳ và gõ từ khóa “South China Sea”, “Paracels”, “Spratlys”, chúng ta sẽ thấy tên tác giả người Hoa hay những công trình có thiên hướng phù hợp với lập trường của TQ chiếm đa số. Điều này để lại một hậu quả là các học giả quốc tế, các nhà hoạch định chính sách tiếp cận với quan điểm từ phía TQ nhiều hơn phía VN. Cho tới nay, như nhà báo Bill Hayton (phóng viên của hãng thông tấn BBC, tác giả cuốn sách Biển Đông: Cuộc đấu tranh quyền lực ở châu Á – NV) chỉ ra một số cuốn sách với nền tảng kiến thức chung về tranh chấp biển Đông, lại là các cuốn sách mà nghiên cứu của họ chủ yếu dựa trên tài liệu của người TQ.

Một ví dụ khác là biến cố Gạc Ma. Trong mấy chục năm qua, trong các ấn phẩm của thế giới khi nhắc lại sự kiện này chỉ nhìn nhận như là một trận hải chiến với sự đụng độ của hải quân hai bên và bên VN bị thua.Một bài viết gần đây phân tích các lá thư gửi Liên Hiệp Quốc của TQ 27 năm về trướcgiúp chúng ta phần nào hiểu được điều này. Chỉ khi TQ đưa ra đoạn băng ghi hình, bắt đầu lác đác có một vài tác giả quốc tế ghi nhận đây thực chất là một cuộc thảm sát của bên được trang bị vũ khí hạng nặng (TQ) sẵn sàng dùng vũ lực để chiếm đảo với bên còn lại vốn chủ trương chiếm đóng một cách hòa bình.

VN không thể đối chọi về số lượng ấn phẩm nhưng có thể hóa giải bằng sự thật (facts), thông tin chính xác để gây dựng niềm tin và hành động, lý lẽ logic, duy lý, phù hợp với những giá trị chung của thế giới để thuyết phục thế giới và cho thế giới thấy VN có chia sẻ những giá trị chung tiến bộ với họ hay không. Hiện giờ, chúng ta đa số tập trung vào lý lẽ, cần phải chia sẻ với thế giới nhiều hơn các bộ tư liệu mang tính “sự thật”, các bằng chứng giúp thế giới tiếp cận thông tin đúng đắn.

Từ băng ghi hình về sự kiện Gạc Ma, quốc tế ghi nhận đây thực chất là một cuộc thảm sát của bên được trang bị vũ khí hạng nặng (TQ) sẵn sàng dùng vũ lực để chiếm đảo của VN. Trong ảnh: Tàu vận tải HQ 604 của VN bị tàu chiến của TQ nã pháo, bắn cháy, chìm xuống biển ngày 14-3-1988. Ảnh: Cắt từ YouTube do TQ quay lại


TQ hung hăn dùng tàu hải giám tấn công tàu cảnh sát biển VN trong sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 xâm phạm vùng biển nước ta. Ảnh: TƯ LIỆU

Từ dữ liệu đến kết nối

. Cấu trúc của mặt trận thông tin của VN cần dựa trên những trụ cột quan trọng nào?

+ Tôi chia sẻ và cũng có suy nghĩ tương tự như đề xuất của một số nhà nghiên cứu cùng cộng sự. Đó là cần có sự gắn kết giữa các cơ quan có thẩm quyền đưa thông tin – giới truyền thông – ngoại giao và giới học giả. Trong đó, thông tin chính xác và nghiên cứu học thuật cần được chú ý nhiều hơn nữa. VN cần phải có một số cơ sở dữ liệu thông tin thống nhất, có tính hệ thống, thường xuyên cập nhật và dễ dàng tiếp cận cho các nhà nghiên cứu.

Dự án Đại sự ký biển Đông hợp tác với Trung tâm Nghiên cứu quốc tế (SCIS) thuộc ĐH KHXH&NV TP.HCM đang nỗ lực đi theo hướng này, với sự tham gia phi vụ lợi của các bạn trẻ có kiến thức chuyên môn và có tấm lòng với đất nước từ nhiều nơi trên thế giới, đã tạo ra nhiều bộ hồ sơ sự kiện như hồ sơ đảo nhân tạo, hồ sơ sử dụng vũ lực từ năm 1945 tới nay, biến cố Gạc Ma qua lưu trữ của Liên Hiệp Quốc, bộ tư liệu vụ kiện giữa Philippines và TQ…

Nhưng hướng đi này sẽ cần có thêm nhiều sự tham gia hơn nữa. Các nhà báo có tinh thần chuyên nghiệp cũng là trụ cột không thể thiếu trong việc truyền tải thông tin chính xác tới công luận.VN có nhiều nhà nghiên cứu, học giả cũng đau đáu việc hướng ra dư luận thế giới, như nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Thao, Dương Danh Huy, hay đội ngũ cây bút mà tôi kể ở trên. GS Alexander L. Vuving cũng là một người có nhiều thiện chí với VN và có nhiều bài viết sắc sảovạch ra chiến lược của TQ gây nhiều sự chú ý cho học giả quốc tế.

. Ngoài việc xây dựng lực lượng thông tin mạnh, VN cần lưu ý thêm vấn đề nào khác nhằm hỗ trợ, thúc đẩy quá trình truyền tải thông tin?

+ Trong bối cảnh bùng nổ thông tin, độc giả có xu hướng tự chọn lọc cho mình một số kênh đáng tin cậy để tiếp nhận và chia sẻ thông tin. Đã tới lúc VN phải chú trọng các mạng xã hội phổ biến như Twitter và Facebook. Việc chia sẻ và tiếp nhận thông tin trên Twitter đã trở thành một công việc hằng ngày của các học giả quốc tế cũng như giới nhà báo và giới quan chức chính phủ. Các bài viết của The Diplomat đã tận dụng nguồn thông tin trên Twitter. Mới đây, GS Alexander L. Vuving dùng Twitter để cung cấp những thông tin chính xác về thực trạng chiếm đóng của các bên cho các học giả quốc tế có nhiều ảnh hưởng. Và học giả Taylor Fravel sau đó đã bình luận đây chính là sức mạnh của Twitter.

Nhìn TQ từ cổ truyện “Tăng Sâm giết người”

Mặc dù có những quan điểm, lập trường của TQ đã bị nhiều học giả bác bỏ nhưng họ vẫn sử dụng những quan điểm đó, với nhiều cách thức khác nhau, nhét vào nhiều tác phẩm khác nhau. Ví dụ, quan điểm của họ rằng Hiệp định hòa bình San Francisco 1951 và 1952 đã giao Hoàng Sa, Trường Sa về cho TQ vốn là một quan điểm không đúng với sự thật. Hai hiệp định đó chỉ có ý nghĩa là Nhật từ bỏ chủ quyền hai quần đảo chứ không hề xác định chủ quyền hai quần đảo đó thuộc về ai, như chính Nhật đã khẳng định trong một lá thư gửi cho Pháp năm 1952. Tuy nhiên, các học giả và giới phát ngôn ngoại giao TQ vẫn đang tiếp tục sử dụng lập luận bị bác bỏ của mình trong các tuyên bố ngoại giao cũng như các ấn phẩm mới nhất. Ví dụ này khiến tôi nhớ đến một câu chuyện trong cổ học tinh hoa của TQ, đó là “Tăng Sâm giết người”. Một điều không đúng sự thật nhưng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần bởi nhiều người, theo nhiều cách khác nhau thì đến một lúc nào đó tự nhiên trở thành sự thật trong niềm tin của người nghe.

ĐỖ THIỆN thực hiện

Bình luận về bài viết này